Trường hợp nào người chồng không được đơn phương ly hôn vợ?

    Khi hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì vợ hoặc chồng có thể chọn cách yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để có cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật, trong một số trường hợp người chồng không được quyền đơn phương Ly hôn. Vậy cụ thể các quy định đó theo pháp luật hiện nay như thế nào?

    Sống ly thân trong cùng nhà có được không?

    1. Thế nào là hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được?

    Cơ sở pháp lý: điểm a Mục 8 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP

    - Hôn nhân được coi là lâm vào tình trạng trầm trọng khi:

    + Vợ chồng không yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng của mình muốn sống ra sao thì sống. Quan hệ hôn nhân đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.

    + Vợ hoặc chồng có các hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như: thường xuyên đánh đập, hoặc có các hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được những bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    + Vợ chồng không chung thuỷ với nhau, như: có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng họ vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.

    - Đời sống chung không thể kéo dài: Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng hay chưa. Nếu thực tế cho thấy rằng đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có mối quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc họ vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì hoàn toàn có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

    -  Mục đích của hôn nhân không đạt được chính là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng; không tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.

    2. Trường hợp nào người chồng không được quyền đơn phương ly hôn với vợ.

    Căn cứ khoản 3 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:

    “1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

    2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

    3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”

     Như vậy, theo quy định trên có 03 trường hợp người chồng không được quyền đơn phương ly hôn, cụ thể:

    + Vợ đang có thai

    + Vợ mới sinh con

    + Đang nuôi con dưới 12 tháng

    Theo đó, nếu không thuộc 3 trường hợp trên thì có cơ sở để Tòa án chấp nhận yêu cầu đơn phương ly hôn của người chồng.

    Trên thực tế, việc xác định người vợ đang nuôi con dưới 12 tháng phụ thuộc vào thực tế người vợ đang chăm sóc, trông nom, nuôi dưỡng con dưới 12 tháng hay không, do vậy khi thực hiện quy định này có thể phát sinh tranh chấp, vướng mắc trong một số trường hợp cụ thể mà chúng ta cần phải xác định xem người chồng có được quyền đơn phương ly hôn hay không, chẳng hạn như:

    • Trường hợp người phụ nữ sinh con dưới 12 tháng tuổi nhưng không nuôi con, thì trên thực tế họ không được xét vào trường hợp mang thai/ sinh con/ đang nuôi con, như vậy người chồng vẫn có thể đơn phương ly hôn;
    • Người phụ nữ mang thai hộ cho người khác thì về nguyên tắc người phụ nữ vẫn được coi là đang mang thai và người chồng không có quyền ly hôn;
    • Người phụ nữ nhờ người khác mang thai hộ, nên trên thực tế họ cũng không được xác định là đang mang thai/sinh con/nuôi con dưới 12 tháng tuổi, nên trong trường hợp này người chồng không bị hạn chế quyền ly hôn;
    • Trường hợp người phụ nữ nhận nuôi con nuôi (hợp pháp theo quy định của pháp luật) mà đứa con dưới 12 tháng tuổi thì về nguyên tắc người chồng cũng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.

    Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Nhat Binh Law.

     Quý khách hàng có bất kỳ thắc mắc nào hoặc có nhu cầu được tư vấn cụ thể hơn xin vui lòng liên hệ trực tiếp với Nhat Binh Law thông qua thông tin bên dưới. Xin chân thành cảm ơn!

     

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ NHẬT BÌNH

    Nhat Binh Law - NBL

    Add      :  125K đường số 14, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP.HCM

    Tel        :  +84-28-6658.8181, Hotline: 0907 299 951 (Mr. Ls Huỳnh Trung Hiếu)

    Email   :  nhatbinhlaw@luatsurienghcm.com

    Website: https://luatsunhatbinh.com

     

    Download file

    GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT

    ĐĂNG KÝ NHẬN TIN